
Mục đích cuối cùng của những người thực hành theo Phật giáo là đạt đến quả vị hoàn toàn giác ngộ và thấu suốt mọi sự vật của một đức Phật. Phương tiện chúng ta nương vào để tu tập là cái thân người này với một tâm hồn thanh tịnh.
Hầu hết chúng
ta sống một cuộc đời tương đối như những con người lành mạnh. Thật vậy, theo
lời đức Phật dạy trong các kinh điển có được thân người hôm nay là một phước
duyên thù thắng và vô cùng quý báu. Ðó là kết quả của vô lượng công đức trải
qua nhiều kiếp tu hành của chúng ta. Mỗi cá nhân đã nỗ lực tinh tấn tu hành mới
có được cái thân người này.
Tại sao nó quý
báu như vậy? Bởi lẻ thân người giúp chúng ta có nhiều thuận duyên tu tập phát
triển đời sống đạo đức hầu mưu tìm hạnh phúc cho chúng ta và những người khác.
Loài vật không có khả năng thực hành đạo đức như con người vì chúng đang sống
trong cõi vô minh.
Cho nên chúng
ta nên biết quý trọng cái thân người nầy và cố gắng bằng mọi cách tinh tấn tu
hành để mong được tái sinh làm thân người ở kiếp sau. Mặc dù chúng ta luôn mong
ước đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, chúng ta nên biết rằng con đường tu hành để
thành Phật là rất dài mà chúng ta muốn thành tựu cần phải trải qua các khoảng
thời gian ngắn để chuẩn bị tu tập.
Như chúng ta đã
biết để bảo đảm được tái sanh làm người với đầy đủ khả năng có thể theo đuổi
con đường tu tập, hành giả trước tiên phải áp dụng thực hành đạo đức. Ðiều này,
theo giáo lý đức Phật, có nghĩa là con người cần tránh, không làm mười điều ác.
Sự khổ gây ra do mỗi việc làm ác này, có nhiều mức độ khác nhau. Ðể đưa ra
những lý do cho chính bản thân mình cần tránh các hành động bất thiện đó, chúng
ta phải hiểu rỏ về luật Nhân Quả.
“Nghiệp” hay
“Karma” có nghĩa là “hành động” nhằm chỉ một việc làm chúng ta tham dự vào cũng
như hậu quả của nó. Khi chúng ta nói hành vi sát hại thì chính tác động đó sẽ
dẫn đến việc cướp đi mạng sống của một người. Kết quả tai hại hơn của hành động
giết người này là gây đau khổ cho nạn nhân cũng như nhiều người thân yêu của
họ.
Nghiệp nhân của
việc làm ác đó còn gây ảnh hưởng xấu đến kẻ sát nhân. Những quả báo này không
chỉ giới hạn trong cuộc đời hiện tại mà thôi. Thực ra kết quả của một hành vi
bất thiện sẽ phát triển theo thời gian, cho nên sự thiếu từ tâm nơi kẻ sát nhân
tàn bạo hủy diệt mạng sống con người nói trên được khởi đầu từ cuộc đời quá khứ
của hắn đã từng xem nhẹ mạng sống mọi người cũng như loài vật và côn trùng.
Một tên sát
nhân không chắc sẽ được tái sinh làm người ở kiếp sau. Những hoàn cảnh dẫn đến
việc giết người sẽ quyết định quả báo khốc liệt mà kẻ sát nhân sẽ phải gánh
chịu. Một tên giết người man rợ, vui sướng khi phạm tội ác, có lẽ sẽ được tái
sinh trong một thế giới mà ta gọi là “Ðịa Ngục”. Một trường hợp kém tàn ác hơn
– ví dụ giết người vì tự vệ – có thể sẽ được tái sinh nơi “địa ngục” chịu ít
đau khổ hơn. Những hành động thiếu đạo đức với hậu quả không nghiêm trọng lắm
có thể khiến cho một người bị tái sinh làm con vật, thiếu khả năng tu tập cải
thiện tâm hồn.
Khi một người
được tái sinh làm người, các hậu quả của những hành vi bất thiện trong kiếp
trước sẽ quyết định hoàn cảnh cuộc sống mới của người đó theo nhiều cách. Sát
sinh nhiều trong đời trước thì kiếp này thọ mạng kẻ ấy sẽ ngắn ngủi hoặc thường
hay bị ốm đau. Nó cũng hướng dẫn người đó có khuynh hướng giết chóc và chắc
chắn họ sẽ chịu quả báo gặp nhiều khổ đau trong những kiếp tương lai.
Tương tự, đời
trước hay trộm cắp thì kiếp này bị nghèo khổ hoặc bị trộm cướp. Nó cũng hướng dẫn
kẻ ấy tiếp tục có ý tưởng trộm cắp trong nhiều đời sau. Hành động tà dâm hay
ngoại tình dẫn đến hậu quả vợ chồng trong kiếp sau sẽ không tin cậy lẫn nhau và
gặp cảnh khổ vì cuộc sống không chung thủy hay bị phản bội. Ðây là những quả
báo của ba việc làm ác gây ra từ nơi thân của chúng ta.
Trong bốn hành
động ác xuất phát từ khẩu nghiệp nơi miệng thì người hay nói dối dẫn đến kết
quả là sống ở đời thường hay bị người ta nói xấu. Vọng ngữ cũng khiến kẻ đó có
khuynh hướng tiếp tục nói dối ở kiếp sau, cũng như bị người ta lừa gạt hoặc mọi
người sẽ không tin dù bạn nói sự thật.
Hậu quả ở kiếp
sau của người nói lời gây chia rẽ là cuộc sống cô độc và khuynh hướng tạo mối
bất hòa với mọi người. Lời nói cộc cằn thô lỗ dẫn đến sự lăng mạ, ngược đãi
người khác và khiến họ sanh tâm giận dữ. Người có tật ngồi lê đôi mách đưa tới
hậu quả đời sau khi nói sẽ không có ai nghe và thường hay nói những câu chuyện
nhảm nhí.
Cuối cùng, quả
báo của ba việc làm ác phát xuất từ ý nghiệp là gì? Sau đây là các tánh xấu bất
thiện thông thường nhất của chúng ta. Lòng tham khiến chúng ta không bao giờ
biết đủ và luôn luôn bất mãn. Ác tâm và sân giận mang lại cho chúng ta sự sợ
hãi và dẫn chúng ta đến hành động làm hại những kẻ khác. Si mê là đặt niềm tin
vào điều trái với sự thật, dẫn đến kết quả là chúng ta không thể hiểu biết,
chấp nhận lẽ phải và ngoan cố bảo thủ, chấp chặt tà kiến.
Trên đây là một
vài ví dụ cho thấy kết quả của các hành động bất thiện. Cuộc sống hiện tại của
chúng ta là kết quả của cái Nghiệp (Karma), việc làm quá khứ của chúng ta. Hoàn
cảnh tương lai, các điều kiện mà trong đó chúng ta sẽ tái sinh vào, những cơ
hội mà chúng ta sẽ có hay không thể có được để tạo dựng một cuộc đời hạnh phúc
tốt đẹp hơn sẽ tùy thuộc vào những hành động và việc làm hiện nay của chúng ta.
Mặc dù hoàn
cảnh hiện tại của chúng ta được quyết định bởi những hành vi trong quá khứ,
nhưng chúng ta vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hành động của chúng ta trong
hiện tại. Chúng ta có khả năng và trách nhiệm để chọn lựa phương cách nhằm
hướng dẫn mọi việc làm của chúng ta đi theo con đường đạo đức.
Khi chúng ta
cân nhắc một hành động nào đó xem xét có hợp với đạo lý hay không, chúng ta nên
tìm hiểu động cơ thúc đẩy của hành vi ấy. Một người lấy quyết định không trộm
cắp, nếu anh ta chỉ vì sợ bị bắt hay trừng phạt bởi luật pháp, vậy thì hành
động không trộm cắp của anh ta không phải là một việc làm đạo đức bởi lẽ những
ý tưởng đạo đức không tác động lên quyết định của anh ta.
Một ví dụ khác,
một người không dám trộm cắp vì sợ dư luận: “Nếu mình trộm cắp thì bạn bè hay
hàng xóm sẽ nghĩ sao về mình? Chắc mọi người sẽ khinh bỉ và mình sẽ bị xã hội
ruồng bỏ”. Mặc dù đó được xem như một quyết định tích cực nhưng nó vẫn không
phải là một hành vi đạo đức.
Bây giờ, một
người cũng có quyết định là sẽ không trộm cắp vì anh ta suy nghĩ rằng: “Nếu ta
trộm cắp tức là ta đã hành động chống lại luật của trời đất và trái với đạo làm
người”. Hoặc là: “Trộm cắp là một việc làm ác, nó gây cho nhiều người khác bị
tổn thất và đau khổ”. Với những động cơ suy nghĩ như vậy, quyết định của anh ta
được xem như một hành vi đạo đức, hợp luân thường đạo lý. Theo giáo lý đức
Phật, khi bạn suy nghĩ cân nhắc tránh không làm các hành động ác thì bạn sẽ
khắc phục được những phiền não khổ đau. Sự kiềm chế đó của bạn được xem như một
việc làm đạo đức.
Nếu bạn hiểu rõ
mọi khía cạnh chi tiết của luật nhân quả thì bạn được gọi là người có trí tuệ
thông suốt mọi việc. Kiến thức thông thường của chúng ta không thể thấu
triệt đầy đủ về luật nhân quả. Muốn sống đúng theo luật nhân quả mà đức
Phật đã dạy, chúng ta cần tin tưởng vào giáo lý của Ngài. Khi Ngài dạy sát sinh
dẫn đến chịu sự đoản mệnh, trộm cắp phải gặp cảnh nghèo túng, thực sự không có
cách nào để chứng minh được những lời Ngài nói là đúng với thực tại. Tuy nhiên,
những điều đó chúng ta cũng không nên tin tưởng một cách mù quáng. Trước tiên
chúng ta cần phải có một niềm tin mạnh mẽ nơi đức Phật và giáo lý của Ngài.
Chúng ta nên dùng lý trí, tìm hiểu thấu đáo trước khi tin những lời dạy của đức
Thế Tôn.
Bằng cách
nghiên cứu những đề tài của Phật Pháp được thiết lập bởi những suy luận hợp lý
– như những lời dạy của đức Phật về tánh không và vô thường của cuộc đời mà
chúng ta sẽ khảo sát ở chương mười ba về “Trí Tuệ” – và nhận thấy rằng chúng
thật sự là chính xác thì niềm tin của chúng ta nơi giáo lý về luật nhân quả –
sẽ tự nhiên tăng lên.
Khi chúng ta
muốn tiếp nhận một lời khuyên, chúng ta đi tìm gặp một người nào đó xứng đáng
đề hướng dẫn giúp đỡ chúng ta. Lời khuyên của họ càng rõ ràng hợp lý, chúng ta
càng quý trọng tin tưởng vào lời chỉ dẫn ấy. Nhằm phát triển: “đức tin sáng
suốt”, đối với những lời dạy của đức Phật chúng ta cũng nên có sự tin tưởng như
vậy.
Tôi tin rằng
chúng ta cần phải có một ít kinh nghiệm và phấn khởi trong sự thực hành để có
được một niềm tin sâu xa và thành khẩn trong lòng. Hình như có hai loại kinh
nghiệm khác nhau. Với những người sùng đạo họ có những kinh nghiệm mà chúng ta
không thể có được. Và có những kinh nghiệm thế tục mà chúng ta đạt được qua sự
tu tập hằng ngày.
Chúng ta có thể
phát triển nhận thức, hiểu biết về sự ngắn ngủi, tạm bợ và vô thường của cuộc
đời. Chúng ta có thể nhận thấy bản chất tàn phá của những cảm xúc khổ đau.
Chúng ta có thể có được lòng từ bi quảng đại đối với mọi người hoặc nhiều kiên
nhẫn hơn khi chúng ta đứng xếp hàng chờ đợi.
Những kinh
nghiệm thực tế như vậy mang lại cho chúng ta cảm giác của nguồn vui và sự mãn
nguyện. Hơn nữa, niềm tin của chúng ta vào những lời giảng dạy mà chúng ta đã
được nghe cũng tăng lên. Ðức tin của chúng ta vào bậc thầy của mình, người đã
truyền cho chúng ta những kinh nghiệm này cũng được phát triển: Lòng tin vào
học thuyết mà vị thầy của chúng ta đang theo đuổi sẽ được củng cố.
Từ những kinh
nghiệm xác thực đó, chúng ta có thể tiên đoán rằng việc thường xuyên tu tập của
chúng ta sẽ giúp chúng ta thành đạt những kết quả phi thường như các Thánh Nhân
đã thực hiện lưu danh ngàn đời trong quá khứ.
Niềm tin sáng
suốt như vậy có được do tinh thần tu tập của hành giả, sẽ giúp chúng ta củng cố
lòng tin vào giáo lý Nhân Quả của đức Phật. Và điều này còn giúp chúng ta quyết
tâm chừa bỏ không làm các việc ác mà chúng sẽ gây đau khổ cho chúng ta.
Niềm tin đó
cũng hỗ trợ chúng ta cố gắng tập trung thiền định, thấu triệt đề mục chúng ta
nghiên cứu, và sau cùng nhận biết rằng chúng ta có được trí tuệ này cũng như
hiểu rõ tuệ giác đó xuất phát từ đâu. Sự phản chiếu ấy được xem như một phần
trong quá trình tu tập thiền định của chúng ta. Nó giúp chúng ta củng cố đức
tin vào ngôi Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng và tinh tấn trong việc tu tập. Nó cũng
giúp chúng ta có thêm nghị lực để tiếp tục dũng tiến trên đường đạo
No comments :
Post a Comment