Vua Ba-tư-nặc một hôm đang hầu chuyện với đức Phật, bỗng 
nghe tin Hoàng hậu hạ sinh công chúa, nhà vua tỏ vẻ không vui. Thấy thế 
đức Phật khuyên nhủ:
          - Đại vương! Một bé gái có thể còn quý hơn con trai. Khi 
lớn lên cô bé có thể là người trí huệ và phẩm hạnh vẹn toàn. Là một 
người vợ hiền, biết kính trọng mẹ chồng. Sẽ là mẹ của một quan vương vĩ 
đại. Thật thế! Đứa con của một người vợ cao thượng sẽ trở thành người 
hướng đạo chân chánh cho quốc gia.
          Câu nói của đức Phật, từ đó như một bằng ban khen, bảo đảm 
giá trị cho người nữ. Phá tung thành kiến với lý luận suy diễn. Ngài cho
 thấy nếu được giáo dục toàn vẹn về trí tuệ và đạo đức, con gái cũng 
đáng quý không thua con trai.
          Ca dao Việt Nam xác định:
          Trai mà chi, gái mà chi,
Con nào có nghĩa, có nghì là hơn.
Con nào có nghĩa, có nghì là hơn.
          Một lần khác đức Phật dạy dỗ cho Sujàtà, con dâu của trưởng
 giả Cấp Cô Độc. Cô này vốn sinh trưởng trong gia đình giàu có, khi về 
nhà chồng rất hống hách, ngang ngược. Đức Phật cho gọi cô lên, giải 
thích về bảy hạng vợ trên thế gian; lưu ý rằng có những người vợ quấy 
rối và những người vợ hiền thục. Cuối cùng Phật hỏi:
-           Này Sujàtà, đó là bảy hạng vợ. Con thuộc hạng nào?
          - Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy nghĩ rằng từ nay con thuộc về hạng vợ hiền.
Phương trời cao rộng
          Mùa An cư thứ năm sau ngày Thành đạo, đức Phật cho phép 
thành lập Giáo hội Ni. Những thử thách buổi đầu của Ngài, là những lời 
giáo huấn vô ngôn cho bản chất Ni chúng. Vượt qua nó, và chứng tỏ khả 
năng giải thoát của mình, là công hạnh của Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và 
chư vị Thánh ni.
          Tập Trưởng Lão Ni Kệ gồm những bài ca chứng đạo, khúc hát 
chiến thắng của những người đã đặt xuống gánh nặng sinh tử. Chúng ta xúc
 động khi lật từng trang kinh. Những mảnh đời khác nhau, những tâm tư 
khác nhau đã hội tụ trong biển Phật pháp. Tỳ-kheo Ni Muttà, con gái dòng
 Bà-la-môn, sau khi tu tập Thiền quán, chứng quả vị A-la-hán, tuyên bố:
          …Hỡi này giải thoát Ni!
Ta thoát được sống chết!
Những gì dẫn tái sanh,
Được nhổ lên tận gốc!
Ta thoát được sống chết!
Những gì dẫn tái sanh,
Được nhổ lên tận gốc!
          Dhammadinnà đi đến với chúng Ni trong một chiếc kiệu vàng. 
Sau khi nhập thất, chế ngự thân miệng ý, Ngài chứng quả A-la-hán. Với 
biện tài vô ngại, Ngài được đức Phật công nhận là người thuyết pháp đệ 
nhất trong các Tỳ-kheo Ni. Bài kệ chứng đạo mở ra một phương trời cao 
rộng:
          Trong ai, lòng ước muốn,
Đạt được quả vô sanh
Đã sanh khởi tỏa rộng
Đầy tràn cả tâm ý.
Tâm không bị trói buộc
Trong các dục chi phối
Vị ấy được tên gọi
Là bậc vào Thượng lưu.
Đạt được quả vô sanh
Đã sanh khởi tỏa rộng
Đầy tràn cả tâm ý.
Tâm không bị trói buộc
Trong các dục chi phối
Vị ấy được tên gọi
Là bậc vào Thượng lưu.
          Anopanà, con gái quan thủ kho, vì rất đẹp nên có tên 
Anopanà (không ai sánh nổi) được các bậc vương tôn công tử cầu hôn với 
lời hứa: “Sẽ nộp sính lễ châu báu gấp tám lần sức nặng của nàng”. Nhưng 
Anopanà đi đến gặp Phật, nghe thuyết pháp, chứng quả thứ ba tại chỗ 
ngồi. Sau khi xuất gia trở thành Tỳ-kheo Ni, chỉ bảy ngày sau Ngài chứng
 quả A-la-hán.
          Khema, hoàng hậu của vua Bimbisàra, tình cờ đến tịnh xá 
Trúc Lâm. Được Thế Tôn hóa độ, bà chứng quả Dự lưu. Sau khi xuất gia, 
chứng quả A-la-hán. Đức Phật xếp Ngài vào hạng Thiền quán đệ nhất, và là
 một trong những bậc thượng thủ Ni thời đó.
          Khi nghe đức Phật tuyên bố rằng: “Ba tháng nữa sẽ vào 
Niết-bàn”, Di mẫu đến đảnh lễ Phật và xin phép nhập diệt trước, Ngài trở
 về tịnh xá, cùng năm trăm La-hán Ni bay lên hư không, thị hiện mười tám
 phép thần biến rồi cùng vào Niết-bàn một lượt. Những vầng Hoa Quang 
tam-muội sáng rực, ánh sáng, nước và lửa cuộn tròn trên không trung. 
Cảnh tượng huy hoàng thiêng liêng một thuở. Hai Sa-di Ni chứng kiến cảnh
 các Thầy nhập diệt, đã nỗ lực Thiền quán cũng chứng A-la-hán và vào 
Niết-bàn luôn. Đức Phật đưa xá-lợi của Di mẫu ra trước chúng, nói:
          - Nếu nói đại trượng phu thì Ma-ha-ba-xà-ba-đề là đại trượng phu. Những gì bậc trượng phu làm Bà đều làm tới cả.
          Chỉ một câu này thôi, Phật tánh hiển lộ bình đẳng.
Ni giới Việt Nam
          Tiếp nối truyền thống chứng đạo và tu đạo. Ni sư Diệu Nhân,
 đời thứ 17 dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, nói kệ dạy chúng trước khi thị 
tịch:
          Sanh già bệnh chết
Xưa nay lẽ thường
Muốn cầu thoát ra
Mở trói thêm ràng
Mê đó, tìm Phật
Lầm đó, cầu Thiền
Phật, Thiền chẳng cầu
Uổng miệng không lời.
Xưa nay lẽ thường
Muốn cầu thoát ra
Mở trói thêm ràng
Mê đó, tìm Phật
Lầm đó, cầu Thiền
Phật, Thiền chẳng cầu
Uổng miệng không lời.
          Bài kệ như một tiếng cười hồn nhiên sảng khoái, làm giật 
mình những người loanh quanh trong vòng trói buộc. Những tìm kiếm nhọc 
nhằn xưa nay chỉ là tìm kiếm trong chiêm bao. Chỗ giác ngộ không có nẻo 
đi về, không tung tích ngôn ngữ.
          Thời cận đại, các bậc Ni trưởng dày công khêu đèn mở đuốc. 
Từ lớp Gia giáo Ni đầu tiên tại chùa Giác Hoa (Bạc Liêu) cho đến các 
trường lớp hiện nay, nhiều thế hệ Ni chúng được trưởng dưỡng trong nguồn
 mạch Tam tạng, được thấm nhuần giáo pháp vi diệu. Con đường hành hóa 
của các bậc tiền bối Ni vang dội, Sư trưởng khai sơn chùa Hải Ấn, Sư 
trưởng khai sơn chùa Kim Sơn, Sư trưởng khai sơn chùa Bảo An (Cần Thơ)… 
những tấm gương khích lệ cho Ni giới. Có một điều gì thâm cảm vô cùng 
khi nhớ đến các Ngài.
          Sư trưởng chùa Huê Lâm, người đầu tiên vận động thành lập 
Ni Bộ Việt Nam, bậc thầy hướng đạo cho sinh hoạt Ni chúng miền Nam từ 
thập niên 60, nói:
          - Ni giới mình yếu ớt lắm, thầy sẽ trở lại để độ Ni.
          “Nguyện làm Ni để độ Ni” - một đại nguyện phát xuất từ hùng lực và bi mẫn. Đại nguyện này thay cho lời kết.
Theo vienchien_online 


No comments :
Post a Comment