Lạy hay còn gọi là Lễ Bái, là
nghi thức rất phổ thông trong dân gian, mang ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn
và niềm tôn kính đến với các đấng thần linh, các bậc tiên hiền có công
khai phá giang sơn, bảo vệ sơn hà xã tắc, và tổ tiên dòng họ tiếp nối.
Dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Trung Hoa, nên việc lễ
lạy, từ hình thức đến nội dung, từ lễ tổ tiên ông bà ở nhà cho đến lễ
lạy Trời, Phật, Thánh, Thần ở đình, chùa, lăng, miếu cũng đều bị ảnh
hưởng theo.
Hầu hết các tôn giáo đều có
lễ lạy nhưng với nghi thức và ý nghĩa khác nhau. Với Phật Giáo, ý nghĩa
và cách thức lễ lạy khác với các đạo giáo khác. Đạo Phật bắt nguồn từ Ấn
Độ. Tại xứ này ngày xưa, dân chúng thường bày tỏ lòng tôn kính chân
thành đến một người nào đó họ ngưỡng mộ kính mến bằng cách quỳ xuống sát
đất, đặt trán mình lên chân của vị ấy. Đức Phật là vị Đạo Sư, là bậc
giác ngộ được tôn kính đặc biệt tại xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Lúc đức
Phật còn tại thế, mỗi lần nghe pháp hay thưa thỉnh việc gì, chư Tăng
thường chắp tay lạy ba lạy rồi thưa hỏi hay ngồi nghe pháp. Đức Phật mặc
nhiên chấp nhận cung cách này như là một tục lệ có từ lâu đời của xã
hội Ấn Độ.
Tuy vậy Ngài cũng không đặt thành
nghi thức lễ lạy mà để tùy tâm các đệ tử. Sau khi Phật Niết Bàn, hình
thức lễ nghi và sự tôn kính ấy vẫn được duy trì trong các hàng đệ tử của
Ngài. Sự duy trì hình thức ấy với mục đích là luôn luôn xem đức Phật
như còn tại thế. Chư Tăng mỗi khi tụng kinh ôn lại lời Ngài dạy, phải
mặc áo cà sa tức áo mầu hoại sắc trang nghiêm, lạy Phật ba lạy. Hàng đệ
tử tại gia cũng theo quý chư Tăng lạy Phật như thế.
Tại sao lại lạy ba lạy mà
không lạy hai lạy, bốn lạy hay năm lạy? Ba lạy chính là lễ lạy ba ngôi
quý báu tức Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng. Người đời thường xem vàng, bạc,
kim cương, hột xoàn, dollars, và danh lợi thế gian là quý báu. Nhưng
thực tế cho biết những thứ này không đem lại hạnh phúc chơn thực, không
cứu được con người thoát khỏi sinh lão bệnh tử. Nhưng với ba ngôi quý
báu Tam Bảo: Phật, Pháp, và Tăng có năng lực dẫn dắt con người thoát
khỏi mọi phiền não và ra khỏi sinh tử luân hồi.
Phật là Giác, là thức tỉnh ra
khỏi giấc ngủ mê. Đức Phật là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn
toàn. Ngài là một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho mọi chúng
sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì thế người Phật tử lạy cái lạy đầu
tiên là để tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ và nhớ ơn Phật, cùng là thề
nguyện sẽ theo gương Ngài mà tu hành để về bến giác.
Pháp là những lời Phật dạy các đệ
tử, sau đó được ghi bằng chữ, gọi là Kinh và Luật. Còn Luận là những
lời bàn luận của các vị Bồ tát, đệ tử của Phật để làm sáng tỏ thêm những
lời Phật dạy. Vì thế người Phật tử lạy cái lạy thứ hai là lạy Pháp bảo
nhằm bày tỏ lòng thành kính, biết ơn và tưởng nhớ đến những lời dạy của
Phật, những lời dạy mà, nếu chúng ta thực hành sẽ có công năng đưa chúng
ta qua khỏi bể khổ, đến bến bờ giải thoát.
Tăng là một đoàn thể sống chung
với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới
luật của Phật đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho
tất cả chúng sinh. Vì thế cái lạy thứ ba là lạy Tăng Bảo, từ các vị
Thánh Tăng xuất thế đến các vị Tỳ Kheo trụ thế tu hành chân chính, đạo
đức trong sạch, và giới luật trang nghiêm, để tỏ lòng thành kính và biết
ơn những vị này đã sống đời sống lý tưởng, đã hy sinh gia đình tiền của
và danh vọng, đã xem tiền bạc châu báu như rắn độc, danh lợi như đôi
dép rách, sắc đẹp như cạm bẫy, ăn ngon mặc đẹp như xiềng xích trói buộc,
để tình nguyện thay Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường đạo.
Ngoài ý nghĩa lễ lạy Phật,
Pháp và Tăng nêu trên, ba cái lạy cũng còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi
qúy báu bên trong chúng ta và trong mỗi chúng sinh, vì chúng sinh cùng
chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt (Phật tánh), đồng một pháp tánh từ
bi và bình đẳng (Pháp tánh), và đồng một đức tánh thanh tịnh, hòa hợp
(Thanh tịnh tánh).
Về cung cách lạy cũng có
nhiều thứ, Người Ấn Độ cũng như Trung Hoa có nhiều cách lễ lạy khác
nhau. Riêng Phật giáo Việt Nam thường lạy theo phương cách “Ngũ thể đầu
địa”, tức là làm thế nào cho hai tay, hai chân và cái đầu đụng mặt đất.
Đây là một phương cách lạy tôn kính nhất trong tất cả các cung cách lễ
lạy. Khi lễ lạy, người Phật tử đứng ngay thẳng, hai chân khép sát vào
nhau, hai bàn tay chắp sát lại nhau cho khít theo thế hiệp chưởng (không
phải thế hình búp sen) tiêu biểu cho sự nhất tâm. Khi lạy Phật có người
để hai tay trước ngực lạy xuống. Cũng có người đưa hai tay lên trán rồi
mới lạy xuống theo phương cách ngũ thể đầu địa, tức là khi lạy phải quỳ
xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng
xuống đặt trán mình lên trên hai lòng bàn tay. Đối với phụ nữ, thường là
quì thẳng lưng rồi lạy, chứ không đứng, vì hình thể đặc biệt của phụ
nữ, khác với nam giới nên thế đứng thẳng trông hơi lộ liễu.
Trong đạo Phật bao giờ sự và
lý cũng phải viên dung. Về sự thì như trên chúng tôi đã trình bày. Chúng
ta lạy Tam Bảo với tất cả thân tâm thành kính nhớ ơn, thành kính nhớ ơn
Phật, thành kính nhớ ơn Pháp, và thành kính nhớ ơn Tăng. Thế còn cái
tâm của chúng ta trong khi lạy phải như thế nào? Nghĩ ngợi gì? Tưởng nhớ
đến ai, đến cảnh gì, vật gì? Hay là để tâm không nghĩ ngợi, không cầu
mong điều gì? Để trả lời câu hỏi này, thiết tưởng chúng ta hãy nhớ lại
bài kệ “Quán Tưởng” mà chúng ta thường tụng trước khi đảnh lễ:
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Đế Châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Đã được dịch ra là:
Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thề nguyện quy y.
Như thế thì bản chất Phật và
chúng sinh vốn là “không tịch” lặng lẽ, tạm gọi là chân tâm. Chỉ từ khi
bắt đầu khởi niệm, là bắt đầu bị cuốn vào dòng vô minh, rồi thức mới
hoạt động, mới suy nghĩ, mới phân biệt ra cái “ta” (năng) và cái “không
phải ta” (sở), mới nảy sinh ra tình cảm yêu ghét, tạo nghiệp, trả quả,
xoay chuyển trong vòng sinh tử không thấy đường ra.
Phật thương xót chúng sinh mê
muội “… trong trí bồ đề mà không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà
sanh ràng buộc…” (Lời sám hối), mới dậy cho chúng sinh tu hành để chấm
dứt cái vòng luẩn quẩn đó bằng cách trì giới, tham thiền, niệm Phật, trì
chú, mục tiêu đều để giảm bớt sự hoành hành của con vượn tâm, con ngựa
ý, giảm bớt những thói quen chấp trước, phân biệt, yêu ghét, từ từ đi
tới định tâm. Khi tâm đã “định” thì trí huệ bát nhã mới có dịp hiển lộ,
mới được hưởng mùi vị cam lồ của Phật Pháp. Đó là điểm đặc biệt của đạo
Phật. Nếu chỉ dậy con người ăn hiền ở lành thì nhiều tôn giáo khác đã
làm, đức Phật thị hiện ra đời là dư, không có gì đặc biệt đáng được tôn
là Đấng Đại Giác. Chính là vì Ngài đã “nhận” được cái tánh “không tịch”
và tự mình dẫn đường cho chúng sinh trong suốt 49 năm, còn để lại kinh
sách làm bản đồ cho đời sau nương theo tu tập mà trở lại được cái tánh
“không tịch” ấy.
Kẻ nội thù dìm ta trong dòng
vô minh chính là cái tâm sinh diệt suy nghĩ liên miên này. Cho nên nếu
muốn báo đền ơn Phật, vâng lời Phật thì ít nhất là trong khi lễ lạy phải
tuân theo lời Phật dạy, không suy nghĩ gì cả, chỉ theo dõi hành động mà
thôi, lễ xuống thì chỉ biết là lễ xuống, đứng lên thì chỉ biết là đứng
lên, chắp tay thì chỉ biết là chắp tay, v..v… không có nghĩ đến bất cứ
ai, không tưởng nhớ đến bất cứ cái gì. Hễ một niệm tưởng dấy lên là ô
nhiễm rồi, là hết “không tịch” rồi, là từ “nhất niệm vô minh” trôi lăn
vào dòng vô minh miên viễn rồi.
Nói tóm lại, “Năng lễ, sở lễ
tánh không tịch”, nghĩa là người lạy và đấng mình lạy, thể tánh đều vắng
lặng bình đẳng. Thật tướng vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng,
không phân biệt, không thấy có mình lạy và người để cho mình lạy. Nếu
khi lạy mà tâm còn vướng mắc một chút xíu mong cầu, hay một chút tơ
tưởng đến dòng họ tổ tiên, dù mỏng như một sợi tơ cũng không đúng phép.
Tâm phải ở trạng thái thanh tịnh vắng lặng. Phật giáo Việt Nam đã thực
hiện phép lý lạy này từ ngàn xưa, thiết tưởng không có phép nào đầy đủ ý
nghĩa và hợp với lý Bát Nhã hơn.
Tâm Diệu
No comments :
Post a Comment