Như Đức
Khu vườn có nhiều tiếng chim. Chúng có thời khắc nhất định
trong ngày, chịu khó để ý sẽ nghe. Buổi sáng mát mẻ, tiếng chim chích
chòe lanh lảnh dồn dập: “Ngồi yên hết trơn”, “Ngồi yên quá tay”, “Vọng
tưởng chút chút thôi”, “Đừng đi quá xa”. Giữa những đoạn ngắn, đôi khi
chúng tuông ra một tràng: “Đôi khi cũng muốn đi lòng vòng”, “Đôi khi
cũng muốn đi về nhà”… Dĩ nhiên đây là diễn dịch của người nghe, ai có
trong tâm chuyện gì thì nghe ra chuyện đó.
Thỉnh thoảng có giọng chim trầm trầm đều đều chen vào đổi
tông. Không biết tại sao người ta gọi nó là chim Mồ Côi, để dịch tiếng
hót đổ hồi của nó thành ra: “Père, mère, frère tout est perdu” (Nghĩa
là: Cha, mẹ, anh em tất cả đều mất). Đây ắt là qua lỗ tai của một người
Pháp xa xứ, cô đơn hay sao mà cho tiếng hót có nghĩa như thế. Nhân đây
lại nhớ đến tiếng cắc kè. Thường buổi tối, ở góc nhà thường vang lên:
“Cắc kè è è è…” Nhân tiếng đó mà người ta đặt tên, còn mấy cái âm è è ở
sau nghe tức cười. Nhưng có người nói, hồi ở ngoài Bắc mới vào, nghe nó
kêu như nhắc mình: “Bắc kỳ, Bắc kỳ” nhớ nhà chịu không nổi. Rồi có người
cãi, tại nghe như vậy chứ rõ ràng nó kêu “Tắt đèn, tắt đèn”, chắc biểu
mình hà tiện điện.
Trở về với tiếng chim, vì vườn nhiều cây, lùm bụi rậm rạp,
giang sơn riêng một thuở của nhiều giống chim. Ai biết được có bao nhiêu
loài cư ngụ trong vườn, chỉ nghe tiếng mà biết chim gì, hoặc thỉnh
thoảng bắt gặp một cánh chim xanh lao vút qua, biết là chim Bói Cá hoặc
trong Nam còn gọi chim Thằng Chài. Chẳng nghe nó hót, có lúc thấy đậu
tuốt trên đọt me, kêu một vài tiếng đục trầm. Có lẽ nó cần im lặng để
rình cá. Loài không có tiếng hót hay thì màu lông phải đặc biệt một
chút, để gọi là không bị lãng quên. Chim Hoàng Oanh, tên nghe hay mà
giọng hót rất lạ, phải có thì giờ đi rất lâu, có khi cả buổi trong vườn
râm mát, mới nghe giọng nó trong thanh. Lớn hơn chim sẻ, màu lông như mà
lá vàng nhạt, chìm lẫn trong khóm cây, ít khi lộ diện. Tiếng của nó
không hiểu sao người ta lại đem so sánh với tiếng thỏ thẻ của người đẹp,
có lẽ làm vui tai. Chùa ở núi, có giọng chim oanh kêu, cũng gợi nên thi
hứng. Vương Duy thi hào đời Đường đã từng làm bài thơ tứ tuyệt có hai
câu: Hoa lạc gia đồng vị tảo Oanh đề sơn khách do miên. (Hoa rụng gia
đồng chưa quét Oanh kêu sơn khách còn nồng.)
Đủ biết tiếng chim không đủ lớn để đánh thức. Thiệt dễ chịu
nếu mình ngủ lại trong một khu vườn, buổi sáng nằm nghe chim hót, với
tâm trạng thư nhàn chỉ muốn nằm yên, không vội chi với cuộc đời.
Không phải tiếng chim nào cũng hay. Có con chỉ hót hai tiếng,
giọng cao xé ngang bầu trời như giọng Opera độc tấu. Nghe hơi chói,
nhưng trong chốn tĩnh mịch, mấy cô đang lo chăm chăm canh chừng tâm, lại
khen là nó nhắc mình: “Trí tuệ!” Hồi xưa mỗi lần như thế, Hạnh Giải lại
nói với tôi: “Chị nghe không, nó kêu Trí Tuệ đó!” Tôi phải phục thầm cô
em ham tu, nghe ra mọi thứ tiếng đều là Phật pháp. Trong tâm một thiền
sinh thì như thế, nhưng với một người khách mới đến tò mò thì nghe ra
là: “Mấy cô?” Đâu nhiều, chỉ khoảng một trăm cô, nên câu hỏi đó sẽ đổi
thành: “Quá đông!” Thiệt vui khi chỉ có một tiếng chim thôi mà biến
thiên theo tâm tình người nghe đủ kiểu. Chim cũng không cần biện minh,
chúng hót cứ hót.
Có một loài chiếm số đông nhất trong vườn, không có giọng hót
đặt biệt, cũng chẳng đẹp đẽ sang trọng gì, nhỏ bé và ríu rít suốt ngày,
ở khắp mọi nơi nhưng thích nhất là mái nhà. Chúng tụ tập ở chánh điện,
bay vào bay ra, cãi nhau, rượt nhau, có khi hai con vừa đánh lộn vừa rớt
xuống, bay lên mổ nhau tiếp. Tha rơm làm rớt đầy thềm, hương đăng vừa
quét xong là dơ liền, ị phân lên cả bồ đoàn tọa cụ của mấy cô. Ở đậu
không biết thân, mỗi khuya đại chúng ngồi thiền là nghe rộ một tràng om
sòm, hoặc chúng tưởng trời sáng gọi nhau đi ăn, hoặc cằn nhằn mấy cô làm
mất giấc ngủ. Hình như chúng thích ở chỗ trung tâm, nên lúc nào cũng
thấy bay thấp thoáng trong sân. Ngoài vườn mấy loài chim lạ, còn chúng
chỉ tụ tập quanh nhà, sà xuống sân ăn gạo, rúc vào đám cát tắm chơi nô
giỡn. Hồi còn nhà ăn cũ, nhìn ra sân thấy lũ chim sẻ rúc rích nhào lộn
trong cát, như con nít vọc nước, cũng vui.
Không ai thấy chim sẻ làm tổ nuôi con ra sao, chỉ thấy thỉnh
thoảng mấy con chim non chập chững tập bay rớt xuống. Thường thì chim mẹ
rối rít lăng xăng hối con bay lên, mà quý cô cũng để tự nhiên cho chúng
tập luyện. Rớt nhằm nhà của người, nếu cõng được thì má nó đã bay xuống
cõng con lên cho lẹ. May phước là mấy con mèo còn bận ở đâu đó, không
thì quý cô cũng ra tay can thiệp. Có nhiều con chim còn yếu, chưa tới
lúc tập bay, lông mọc chưa đủ, bò ở trên cái tổ theo meo nóc nhà, mẹ cản
không kịp nên rớt. Cả mẹ và con cùng la, tiếng hốt hoảng của chim mẹ, y
như bà mẹ người thấy con mình bò gần miệng giếng. Mấy cô ngồi gần đó
lượm lên, lượm vải lót vào cái rổ, cho nó nằm trong đó, đợi chim mẹ tới
nhận. Chắc là chim mẹ lo lắng vô cùng, nhưng đành lẩn quẩn ở trên nhìn
xuống. Mấy cô thì không biết tổ nó ở đâu, con ai mà gởi trả. Chim sẻ con
nào cũng giống con nào, thấy bay đầy sân vườn, không thể đăng báo hoặc
nhắn tin, Mít… Xoài gì đó. Ôi thế là mẹ con chia tay. Có cô phát tâm làm
dưỡng mẫu dùm, nhai gạo mớm cho nó, nhúng tay vào nước rồi kề gần mỏ,
nó chíp chíp chút nước trên tay. Nuôi không khéo nó bị sình bụng vì
không quen ăn gạo sống, hoặc thiếu hơi ấm của mẹ. Mặc dù cẩn thận lót
vải, đậy lồng bàn, hoặc tối bỏ vô mùng, đề phòng mèo chuột. Nhưng nuôi
kiểu của người, ít khi thành công.
Một đôi khi, rất hiếm, vài con cứng cát hơn, qua được giai
đoạn ăn nhờ ở đậu, thường chỉ vài ba ngày hoặc một tuần, một hôm nào
chắp cánh bay về với mẹ. Có nhớ ơn nghĩa thì xuống đậu nơi cửa sổ nhìn
vào chỗ tạm trú, hoặc bay vòng vòng gần đâu đó, kiểu như thăm lại má
nuôi. Viên Quang có lần nuôi được con chim rất lâu. Mỗi khi làm gạo,
sàng sảy thóc lúa, đều để nó một bên. Lúc đầu nó nằm im trong rổ, sau
dạn hơn nhảy loi choi mổ thóc, lẫm đẫm bên Viên Quang, đại chúng đi qua
lại thấy đều trầm trồ khen. Như một cơ duyên hãn hữu, ít có con chim nào
quyến luyến người lâu như vậy.
Giờ Quá đường, sáng hoặc trưa, có con chim sẻ nâu bay vù vào
bàn ăn, đậu lên vai cô này cô nọ, chộp mổ mấy hột cơm trên bàn, tự nhiên
như mình cũng là thành phần trong chúng. Mấy cô cũng vui chia sớt, nó
ăn đâu có bao nhiêu, nhưng với cách đậu cách đi tự tin trên bàn, cách
đón đợi giờ ăn của nó, biểu hiện sự cảm thông giữa muôn vật.
Bàn ăn của tôi vì là chức sự nên chỉ có bốn người, con chim
sẻ thường ghé, chắc nó ưa ăn gạo lứt, vì tôi bỏ cơm ra bàn nó mổ hết.
Lâu dần cũng nhận ra được con nuôi của Viên Quang, đại chúng chỉ cho
tôi, mấy con chim khác chỉ đậu ở cửa sổ rồi đi, con này đậu lâu hơn, ngó
nhìn rồi bay sà tới bàn ăn chứ không đi. Nó tin tưởng mình như vậy, và
tôi tới giờ ăn, cũng hay ngó qua cửa sổ đợi một dáng chim quen. Ít lâu
sau, nó không đứng ăn trên bàn mà mổ cơm rồi bay đi. Chúng bàn với nhau,
nó có con rồi, nên tha cơm về nuôi con. Mà thiệt, cách nó đến đi lật
đật, bay hai ba lượt, ngậm cơm rồi đi như thế, phải là đang nuôi con.
Cho nó hai phần cơm, tôi nhủ thầm, mày ăn đi rồi tha về cho con cũng
được. Nhưng không khi nào nó nhởn nhơ đứng ăn như trước nữa. Chúng cũng
nhắn vói: “Thôi bữa nào dắt con mày về thăm chúng”. Tưởng ra ở một góc
nào đó, có mấy mẹ con chim ríu rít, mẹ nó sẽ kể lại thời kỳ bị té, được
mấy cô nuôi.
Về sau, không thấy nó trở lại bàn ăn, chẳng có con chim nào
dạn dĩ tới nỗi bay đến quý cô tha cơm. Hạnh Nghiêm thường rải gạo tấm ra
sân để chúng tự do. Biết chắc rằng mẹ con chim không bao giờ đói. Tôi
vẫn nhớ đến cách ăn của chim sẻ, lúc chưa và lúc nuôi con. Hình ảnh của
người mẹ tận tụy, tình mẹ trải khắp trong muôn loài.
No comments :
Post a Comment