Có thân nên có bệnh
Kinh điển ghi lại rất nhiều trường hợp các Tỳ-kheo, Phật
tử mang trọng bệnh, nhưng sau khi tụng kinh, nghe pháp thì lành bệnh
hẳn. Dĩ nhiên, pháp Phật chủ yếu là dùng để đối trị tâm bệnh, nhưng có
rất nhiều kinh cho thấy pháp ấy còn trị cả thân bệnh. Như trường hợp Tôn
giả Đại Ca-diếp (Mahà Kassapa) mắc trọng bệnh, đau đớn kịch liệt, khó
có thể kham nhẫn. Thế Tôn đến thăm và nói tóm lược Thất giác chi, nghe
xong Tôn giả liền lành hẳn bệnh.
Kinh ghi: “Này Kassapa, bảy giác chi
này do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là bảy? Niệm giác chi,
này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho
sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn (lược). Xả giác chi, này
Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung
mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Bảy giác chi này, này
Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung
mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”1. Kinh điển ghi chép, các pháp khác như Tứ bất hoại tịnh, Ngũ căn, Ngũ lực… đều có khả năng trị liệu như thế.
Tuy nhiên, Đức Phật từng khuyên “Dù thân có bệnh nhưng
đừng để tâm bệnh!”. Điều này có nghĩa phải chấp nhận một sự thật là có
thân ắt phải có bệnh. Lão Tử chẳng đã nói “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu
thân” đó sao? Cho nên, giáo pháp của Đức Phật là nhằm đến mục đích đạt
được tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cho dù thân này phải chịu sự biến
dịch sanh tử, nhưng tâm không bệnh.
Chuyện kể rằng, khi Đức Phật trú tại vườn Nai trong rừng
Quỷ (Bhesakaḷāvane migadāya), núi Thi-mục-ma-la, nước Bạt-kỳ, cư sĩ
Na-ưu-la, tuổi đã 120 đến thăm Thế Tôn và tâm sự rằng: “Tuổi con nay đã
suy yếu, lại mang tật bệnh, có nhiều điều ưu não. Nguyện xin Thế Tôn tùy
thời dạy dỗ khiến cho chúng sanh được an ổn lâu dài”. Phật dạy: “Như
những gì ông đã nói, thân có nhiều lo sợ, đau đớn, nào đáng để cậy
nương. Nó chỉ có lớp da mỏng bao phủ lên. Trưởng giả nên biết, ai ỷ tựa
vào thân này, để có thể thấy được cái vui trong chốc lát, đó là tâm niệm
của kẻ ngu, chứ không phải là điều quý của người trí. Cho nên, này
Trưởng giả, dù thân có bệnh, nhưng không để tâm bệnh. Như vậy, này
Trưởng giả, hãy học điều này”2.
Thân bệnh
Kinh Phật thuyết Phật y 3 nói trong
thân thể con người vốn có bốn thứ bệnh cơ bản. Một là bệnh do đất, hai
là bệnh do nước, ba là bệnh do lửa, bốn là bệnh do gió. Khi yếu tố gió
lấn lướt các yếu tố khác thì hơi thở dồn dập; lửa lấn lướt thì nhiệt
lượng cơ thể tăng cao; nước trấn áp thì người lạnh như băng; đất tăng
trưởng thì cơ thể trở nên trầm nịch nặng nề. Đó là nguyên nhân phát sinh
ra bốn thứ bệnh. Từ bốn thứ bệnh này lại phát sinh ra bốn trăm lẻ bốn
thứ bệnh khác.
Thân bệnh và tâm cũng bệnh
Xem ra, con người không chỉ có hơn bốn trăm loại bệnh mà
có vô số bệnh. Có những căn bệnh phát sinh do tứ đại không điều hòa, do
thời tiết thay đổi, do tiêu thụ thực phẩm không an toàn, do sinh hoạt
quá độ và do nghiệp đã tạo…
Nếu như một người chưa học hỏi, nghe Chánh pháp, thì khi
đối diện với sự sinh khởi, biến hoại, vị ngọt, tai họa, xuất ly của sắc
thân, người ấy sẽ không thấy biết như thật. Do không thấy biết như
thật, cho nên đối với sắc thân này đã nảy sinh ý niệm tham ái, ưa thích,
đắm trước, rồi dẫn đến sự chấp trước cho rằng ngã là chủ thể của sinh
mạng, hoặc giả cho rằng sắc thân này là tôi, là của tôi. Vì chấp trước
như thế nên khi sắc thân này phát sinh bệnh tật, biến hóa, bại hoại thì
tâm cũng theo đó mà bị tác động khiến sinh khởi ưu, bi, não, khổ, khiếp
sợ, luyến tiếc, không buông bỏ được, gây chướng ngại giải thoát và làm
cho bệnh thêm trầm trọng.
Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức, trong mỗi thứ
đó mà cho rằng nó có ngã, ngã là chủ thể của sinh mạng, hoặc là nó nâng
đỡ cho ngã, hoặc là ngã ở trong đó, hoặc là trong đó có ngã. Vì cho rằng
trong sinh mạng có một cái ngã tồn tại bất biến, là chủ thể của sinh
mạng, cho nên kết quả tất nhiên là khi sắc thân này có bệnh thì tâm cũng
bệnh theo.
Nói một cách khác, do không thấy biết như thật, tức
không thấy biết cuộc đời vô thường, các pháp vô ngã nên sinh tâm luyến
ái cái ta và cái của ta, từ thân thể này cho đến tài sản vợ con, danh
lợi, sự nghiệp… Do đó, khi lâm bệnh, dù bệnh không có gì nặng, nhưng cái
tâm lý lo lắng, sợ hãi, sợ chết, vợ mất người thân, không còn cơ hội
thụ hưởng cuộc sống… làm cho bệnh trầm trọng hơn. Đó là thân bệnh và
tâm cũng bệnh.
Thân bệnh, tâm không bệnh
Khác với người phàm phu không học hỏi Chánh pháp, một vị
Thánh đệ tử đã học rộng nghe nhiều Chánh pháp, đối với sự sinh khởi,
biến mất, vị ngọt, tai họa, xuất ly của sắc thân, vị ấy thấy biết đúng
như thật. Do thấy biết đúng như thật cho nên đối với sắc thân vị ấy
không tham ái, ưa thích, đắm trước; không cho rằng sắc thân này là ngã
chủ thể sinh mạng của tôi, cũng không cho rằng trong sinh mạng này có
một chủ thể khác, hay sắc thân này thuộc về ngã chủ thể kia. Vì không
nghĩ tưởng như thế, cho nên khi sắc thân phát sinh biến hóa, bại hoại,
tâm không thể theo đó mà bị tác động, thì không thể có ưu, bi, não, khổ,
khiếp sợ, luyến tiếc, không buông bỏ được, gây chướng ngại giải thoát.
Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức, những thứ nhóm
họp thành sinh mạng này cũng giống như vậy, không cho rằng trong đó có
một cái ngã là chủ thể của sinh mạng tồn tại bất biến, cho nên khi sắc
thân này bệnh, tâm không vì đó mà sinh bệnh.
Một khi thân bệnh mà tâm không bệnh, thì dù thân bệnh
nặng cũng không vì vậy mà khổ, ngược lại còn lạc quan, tự tin và tinh
tấn hành trì, thực tập lời Phật dạy, lấy thân bệnh làm đối tượng thiền
quán, tập buông xả, sống thảnh thơi, nhờ vậy có thể chuyển hóa được
nghiệp lực đã tạo mà vượt qua tật bệnh. Nhưng khi tâm có bệnh, cho dù
thân thể có khỏe mạnh cũng chẳng có gì an vui.
Mạng người như nắm tuyết
Thân người giống như nắm tuyết, tất sẽ tan chảy. Cũng
như nắm đất, rồi cũng vỡ vụn, không thể giữ lâu; cũng như quáng nắng,
huyễn hóa, hư ngụy không thật; cũng như nắm tay không, dùng để gạt con
nít.
Có bốn điều rất sợ hãi, sẽ mang đến thân này không thể
ngăn che được, cũng không thể dùng ngôn ngữ, chú thuật, thuốc men, phù
thư để có thể trừ khử. Một là già làm bại hoại tráng niên khiến không
nhan sắc. Hai là bệnh làm bại hoại người không bệnh. Ba là chết làm bại
hoại hết mạng căn. Bốn là vật hữu thường trở về vô thường.
Già, bệnh, chết, vô thường như bốn ngọn núi lớn, từ bốn phương dồn ép đến chúng sanh, không thể dùng sức gì ngăn cản được4.
Vô trụ Niết-bàn
Tăng nhất A-hàm còn lưu lại một bản kinh in đậm dấu ấn vô thường trên thân thể Thế Tôn trong những ngày tháng cuối cùng thị hiện giữa thế gian5.
Người đời luôn mong ước được trẻ mãi không già, mạnh hoài không bệnh,
sống hoài không chết và ái ân đoàn tụ, nhưng sự thật thì không như ý
muốn. Chư thiên, người đời cho đến Chuyển luân Thánh vương, chư Phật Thế
Tôn cũng không thoát khỏi quy luật ấy. Cho nên, Đức Phật khuyên các
Tỳ-kheo hãy nỗ lực tu tập bốn pháp: Giới, Định, Tuệ và Giải thoát của
Hiền thánh để đạt Niết-bàn, không còn tái sanh nữa.
Kinh kể chuyện Tôn giả Bà-ca-lê là một người có tín giải
thoát, nhưng vẫn chưa được lậu tận, thân lại mang bệnh lâu ngày. Vì
không muốn chịu khổ thân bệnh thêm nữa nên muốn tự sát. Trong khi toan
cầm dao đâm vào ngực, thì niệm tưởng công đức Như Lai, lại nghĩ mình
xuất gia ở trong pháp Như Lai chưa được chứng đắc mà đã mạng chung, ngay
đó thiền quán về năm uẩn và thấy sự thật tất cả các pháp có sanh đều có
tử. Thấy vậy rồi liền được tâm giải thoát, khỏi lậu hoặc. Bấy giờ
Bà-ca-lê nhập Niết-bàn mà không cần phải tự sát.
Tệ ma Ba-tuần dùng thần lực tìm kiếm xem thần thức
Bà-ca-lê đang ở đâu nhưng không cách nào tìm được. Các Tỳ-kheo cũng muốn
biết. Thế Tôn dạy: “Thần thức Tỳ-kheo Bà-ca-lê không còn trụ vào bất cứ
đâu. Thiện gia nam tử kia đã Bát Niết-bàn (Vô trụ xứ Niết-bàn)6.
Thích Nguyên Hùng
----------------------------
1 Tương ưng bộ kinh, 14.IV. Bệnh (1) (S.v,79).
2 Tăng nhất A-hàm, chương Một pháp, phẩm Lợi dưỡng, kinh số 4.
3 ĐTK/ĐCTT 17, n°.0793.
4 Tăng nhất A-hàm, phẩm Lợi dưỡng.
5 Tăng nhất A-hàm, phẩm Bốn ý đoạn.
6 Phẩm Bốn ý đoạn, kinh số 2.
2 Tăng nhất A-hàm, chương Một pháp, phẩm Lợi dưỡng, kinh số 4.
3 ĐTK/ĐCTT 17, n°.0793.
4 Tăng nhất A-hàm, phẩm Lợi dưỡng.
5 Tăng nhất A-hàm, phẩm Bốn ý đoạn.
6 Phẩm Bốn ý đoạn, kinh số 2.
No comments :
Post a Comment